Ở Trung Quốc hiện nay, song song với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và dân số là sự yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt lao động chất lượng cao. Vì vậy, việc đầu tư vào giáo dục các cấp trên toàn quốc và đào tạo nhiều nguồn nhân lực có chất lượng cao đã và đang được Chính phủ nước này ưu tiên trong chiến lược phát triển của quốc gia. Một số chính sách chiến lược nổi bật của Trung Quốc nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm:
Tăng cường ngân sách đầu tư cho giáo dục
Nhà nước Trung Quốc đã khởi xướng một chính sách tài trợ ưu tiên cho phép rót một nguồn đầu tư bổ sung cho các trường hàng đầu của quốc gia. Trọng tâm của chính sách này là Dự án 211 và Dự án 985 có mục đích là để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chú trọng vào đổi mới công nghệ, bồi dưỡng nhân tài có năng lực sáng tạo và nâng cao năng lực tự đổi mới để sao cho các trường đại học hàng đầu của Trung Quốc trở thành một động lực quan trọng cho sự thành lập một quốc gia đổi mới.
Dự án 211 được Chính phủ Trung Quốc khởi xướng vào năm 1995, tên gọi phản ánh mục tiêu xây dựng 100 trường đại học đẳng cấp hàng đầu với các ngành học then chốt trong thế kỷ 21. Dự án dành gần hai mươi tỷ USD của ngân sách nhà nước cho các trường dự thầu các hạng mục đầu tư. Khoảng 100 trường được chấp thuận giao ngân sách bổ sung để nâng cấp trang thiết bị và chương trình đào tạo. Nhà nước cũng xây dựng 80 lĩnh vực học thuật và 602 chuyên ngành trọng điểm qua mạng lưới các trường này. Những tiêu chí trọng yếu khác gắn với Dự án 211 là việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, cải cách việc quản lý điều hành nhà trường, và củng cố hợp tác giao lưu quốc tế. Dự án được thực hiện nhằm đào tạo một nguồn nhân lực chuyên nghiệp để thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế và xã hội, dự án đóng vai trò quan trọng trong việc cải tiến giáo dục đại học, thúc đẩy nhanh tiến trình kinh tế quốc dân, đẩy mạnh sự phát triển khoa học, công nghệ và văn hóa, tăng cường năng lực tổng thể và khả năng cạnh tranh quốc tế của Trung Quốc và đặt nền tảng cho đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp có trình độ cao chủ yếu ở các cơ sở giáo dục trong nước.
Dự án 985 nhằm mục đích phát triển 10-12 trường đại học đạt đẳng cấp thế giới, có khả năng cạnh tranh với các cơ sở giáo dục đại học đứng đầu thế giới và các tổ chức nghiên cứu cấp cao nổi tiếng thế giới. Hơn 14 tỷ NDT (xấp xỉ 1,26 tỷ Euro) đã được đầu tư cho giai đoạn đầu của dự án từ năm 1999 đến 2003, đây được coi là giai đoạn chuyển tiếp. Giai đoạn này đặc biệt tập trung vào 10 trường đại học hàng đầu của Trung Quốc, trong đó có Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa (Tsinghua) được ưu tiên đầu tiên; và ngoài ra là 39 trường đại học khác. Đây sẽ là nhóm các trường đại học dẫn đầu trong ngành giáo dục đại học Trung Quốc. Giai đoạn hai của dự án được thực hiện trong các năm 2003-2007. Dự án được dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện các giai đoạn ba và bốn, nếu cần thiết có thêm các giai đoạn bổ sung. Theo số liệu thống kê năm 2003, các trường đại học được đầu tư trong giai đoạn đầu của Dự án 985 chỉ chiếm 1% tổng số các cơ sở giáo dục đại học Trung Quốc, nhưng các phòng thí nghiệm then chốt của các trường này chiếm gần một nửa, nguồn kinh phí nghiên cứu hàng năm của họ chiếm đến 1/3, số nghiên cứu sinh sau đại học theo đuổi các chương trình đào tạo thạc sĩ chiếm 20%, và nghiên cứu sinh chiếm 30%. Các trường này được hưởng nguồn kinh phí hỗ trợ đặc biệt cùng với nguồn tài trợ thường xuyên.
Đổi mới hệ thống giáo dục, chương trình đào tạo và nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên
Trung Quốc đã và đang nỗ lực hết sức để phát triển giáo dục và đào tạo nhằm theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ cũng như sự phát triển kinh tế thế giới. Các cơ sở giáo dục đại học đào tạo giáo viên ở Trung Quốc hiện đã được tăng quyền tự chủ, đẩy mạnh cải cách để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, tạo nguồn lực giáo viên có trình độ chuyên môn, phẩm chất và năng lực sư phạm cao. Trong những năm qua, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách như: nâng cao chuẩn chất lượng giáo viên; mở rộng hệ thống đào tạo giáo viên ra ngoài các trường sư phạm truyền thống; thống nhất chất lượng đào tạo chính quy và không chính quy; tăng cường đổi mới chương trình đào tạo và nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo giáo viên.
Số chương trình liên kết với đối tác quốc tế của các trường đại học ngày càng tăng. Hầu hết các chương trình này có nguồn gốc ở những nước phát triển và có nền công nghệ tiên tiến. Gần một nửa là từ Mỹ và Úc, những nước chiếm thị phần lớn nhất về xuất khẩu giáo dục; một số ít nhưng cũng khá đáng kể là từ châu Âu. Nhiều chương trình liên kết được phép cấp bằng nước ngoài đã được thực hiện ở những trường Trung Quốc nổi tiếng như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Zhejiang với hơn 100 trường đại học nước ngoài. Về ngành học, hầu hết là kinh doanh, thương mại và quản lý.
Chính phủ Trung Quốc cũng triển khai thực hiện nhiều dự án khoa học kỹ thuật quan trọng. Các dự án này có nhiệm vụ quan trọng là góp phần hình thành đội ngũ nhân tài hạt nhân, tạo điều kiện cho sự ra đời của nhân tài quan trọng. Bên cạnh đó, về mặt phân phối tài nguyên khoa học kỹ thuật, họ coi trọng xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học, kể cả phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, Trung tâm công trình quốc gia, Trung tâm nghiên cứu phát triển doanh nghiệp…
Xúc tiến các dự án đào tạo nhân tài trẻ nhằm phát hiện các tài năng trẻ xuất chúng
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một loạt các kế hoạch trao giải thưởng và trợ giúp thế hệ trẻ, nhằm tạo điều kiện phát triển nhân tài có khả năng sáng tạo và xây dựng một đội ngũ các nhà chuyên nghiệp trình độ cao. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ cho sinh viên Trung Quốc đi du học nước ngoài, nhấn mạnh đến những ích lợi của việc sáng tạo nguồn nhân lực trí thức ưu tú và kêu gọi phối hợp hành động để làm tăng nguồn kinh phí và các dịch vụ hỗ trợ cho các sinh viên có nguyện vọng đi du học nước ngoài. Chính phủ thành lập các giải thưởng dành cho các nhân tài, học giả, các nhà nghiên cứu tài năng như Giải thưởng Yangtze-River (Giải thưởng Trường Giang) dành cho các học giả; Giải thưởng dành cho các giảng viên trẻ tài năng trong các trường đại học.
Chính phủ Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức Diễn đàn Hàn lâm Quốc gia dành cho các tiến sĩ, tài trợ cho 12 cơ sở giáo dục đại học thành lập 13 chương trình trại hè dành cho các nghiên cứu sinh sau đại học, và hỗ trợ 16 cơ sở giáo dục đại học thành lập các trung tâm đổi mới sau đại học trong và bên ngoài các trường đại học và làm cho chúng trở thành các cơ sở quan trọng đối với việc cải tổ các mô hình đào tạo sau đại học (Nguyễn Thu Thủy 2020).
Sau khi thực hiện các chính sách, đặc biệt về giáo dục và đào tạo, nhằm phát triển nguồn lao động chất lượng cao, kết quả Điều tra dân số quốc gia lần thứ 7 của Trung Quốc công bố vào tháng 5/2021 cho biết quốc gia này hiện đã có khoảng 218,36 triệu người có trình độ đại học. Trung bình, trong mỗi 100.000 người có 15.467 người có trình độ đại học, tăng đáng kể so với con số 8.930 người năm 2010. Năm 2021, Trung Quốc dự kiến sẽ chứng kiến kỷ lục 9,09 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học. Theo Bộ Nhân lực và An sinh xã hội Trung Quốc, lao động có tay nghề tại quốc gia này chiếm 26% tổng số lao động của cả nước, trong đó 28% là lao động có trình độ cao. Trong giai đoạn 2016-2020, lao động có trình độ cao tại Trung Quốc đã tăng khoảng hơn 10 triệu người.
Qua các chính sách chiến lược về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của một số quốc gia, đặc biệt là nguồn lao động chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế số ở Trung Quốc đã đề cập ở trên, bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra cho Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, mỗi quốc gia cần phải có một chiến lược nhân tài tổng thể gắn với quy hoạch quốc gia, phải tạo những điều kiện thuận lợi, những ưu đãi hấp dẫn nhất để thu hút và sử dụng được nguồn nhân lực cao cấp là nhân tài từ nước ngoài trở về, nhân tài là người nước ngoài, từng bước tham gia cuộc cạnh tranh chất xám trên quy mô toàn cầu. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể khuyến khích các nhà khoa học, du học sinh, sinh viên tốt nghiệp về nước công tác, xây dựng kế hoạch đào tạo và thu hút nhân tài cho đất nước.
Thứ hai, các quốc gia đều đã chứng minh một hướng đi đúng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó là tăng trưởng kinh tế gắn với giáo dục đào tạo. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do vậy, Việt Nam cần thực hiện cải cách sâu rộng về chương trình giáo dục, đào tạo, cách dạy và học, tăng cường kết hợp giáo dục đào tạo với sản xuất, kinh doanh, xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Nhà nước cần chú trọng đầu tư để phát triển giáo dục đại học của quốc gia, phải thực sự coi giáo dục đại học là quốc sách hàng đầu, xây dựng đội ngũ giảng viên đại học có đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Đội ngũ giảng viên đại học cần được đào tạo trong nước, gửi đi đào tạo ở nước có nền giáo dục tiên tiến. Ngoài việc đào tạo, cần thu hút những giáo sư, những chuyên gia, những nhà hoạt động thực tiễn tài năng là Việt kiều hoặc người ngoại quốc tham gia vào đội ngũ cán bộ giảng dạy bậc đại học ở Việt Nam.
Thứ ba, nguồn nhân lực trẻ tài năng cần đặc biệt quan tâm tạo điều kiện tốt. Thế hệ trẻ là tương lai của mỗi quốc gia. Vì vậy, quốc gia nào biết quan tâm, tạo điều kiện để lực lượng nhân lực trẻ phát huy tối đa khả năng thì họ sẽ góp phần to lớn vào quá trình phát triển vững vàng của quốc gia trong tương lai. Đặc biệt, Việt Nam cần quan tâm, phát huy những tiềm năng hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ “lao động chất xám”, từ đó hình thành đội ngũ các nhà khoa học giỏi, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giáo dục đào tạo.
Thứ tư, hệ thống giáo dục đào tạo cần thực hiện hiệu quả cải cách hiệu quả, nhất là đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng cho người lao động, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần phù hợp với nhu cầu thị trường lao động theo ngành nghề. Trong thực tế phát triển Việt Nam hiện nay, việc đào tạo ở bậc học đại học chưa thực sự gắn chặt với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc lựa chọn nghề nghiệp theo học mang nhiều cảm nhận chủ quan. Như vậy, Chính phủ Việt Nam cần phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu nguồn nhân lực (số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan lập chiến lược phát triển nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
--------------------------------------------
Chú thích
- https://investinchina.chinadaily.com.cn/s/202106/03/WS5c7df2f1498e27e3380399d5/educated-labor-force.html
- http://english.www.gov.cn/news/topnews/202103/24/content_WS605a9778c6d0719374afb4dc.html
-------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Thu Thủy, 2020, Phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm, thuộc Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cơ chế thị trường”